Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 221 học sinh tiểu học (9 - 11 tuổi) được chọn ngẫu nhiên từ bốn trường tiểu học ở Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 7/2020 - 10/2020. Kết quả: Tổng cộng có 124 học sinh được đánh giá khẩu phần 24 giờ trong 3 ngày không liên tục (2 ngày trong tuần và 1 ngày cuối tuần). Tỉ lệ thừa cân, béo phì ở đối tượng nghiên cứu lần lượt là 27,6% và 31,7%. Trẻ tiêu thụ lượng rau, trái cây, sữa đáp ứng 50% nhu cầu khuyến nghị trong khi tiêu thụ các thực phẩm có đường gấp đôi so với khuyến nghị. Có 4 kiểu ăn uống phổ biến gồm: kiểu ăn truyền thống, kiểu ăn vặt, kiểu ăn nhẹ, kiểu ăn công nghiệp. Sau khi hiệu chỉnh bởi năng lượng ăn vào, giới tính, và tuổi, trẻ có kiểu ăn nhẹ (sữa và thức ăn vặt giàu muối/đường) và ăn công nghiệp (thức ăn nhanh và thịt chế biến) là yếu tố nguy cơ đối với tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ với chỉ số nguy cơ lần lượt là OR (KTC95%) = 3,5(1 - 11,9) và OR (KTC 95%) = 2,8 (1,1 - 7,1). Ngoài ra, một số yếu tố có liên quan đến tình trạng béo phì của trẻ được xác định gồm: nam giới OR (KTC 95%) = 4,9 (2,2 - 10,6), có bố béo phì OR (KTC 95%) = 3,1 (1,3 - 7,5), gia đình có thu nhập từ 15 - 20 triệu trở lên OR (KTC 95%) = 3,7 (1,0 - 13,2) và gia đình có thu nhập < 5 triệu đồng OR (KTC 95%) = 4,2 (1,2 - 15). Kết luận: Tỉ lệ thừa cân béo phì ở học sinh tiểu học tại Thành phố Hồ Chí Minh đang ở mức cao và chế độ ăn không lành mạnh, nam giới, bố béo phì, thu nhập gia đình ở mức thấp và mức trung bình cao là yếu tố nguy cơ của tình trạng này. Do đó cần có các chương trình can thiệp cộng đồng và các chính sách xã hội kịp thời nhằm kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ em, đặc biệt là trẻ ở các gia đình có thu nhập thấp.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!