Chủ yếu tính chất u thường gặp là dạng hỗn hợp vừa có nang, vừa có mô đặc và kèm theo vôi hóa (80%). Phần lớn các ca sau phẫu thuật đều tỉnh táo GCS 14-15 điểm (74,3%). Biến chứng sau mổ có 6,4% ca động kinh, 2,9% ca yếu chi. Có 68,6% ca sau phẫu thuật ngày đầu có đái tháo nhạt. Trong đó ghi nhận có 35,3% là đái tháo nhạt vĩnh viễn, 29,4% đái tháo nhạt thoáng qua và 11,8% đái tháo nhạt ba pha. Về giải phẫu bệnh học, ghi nhận có 62,8% ca u sọ hầu dạng men bào, 34,3% ca u sọ hầu dạng nhú gai và 2,9% ca không phân loại được u. Trong 35 bệnh nhân u sọ hầu được phẫu thuật và điều trị, có 54,3% ca xuất viện với GOS5, 37,1% ca GOS4, 5,7% ca GOS2. Tỉ lệ tử vong sau điều trị là 8,6%. Tỉ lệ tái phát trong khi theo dõi và điều trị là 18%. Kết luận: Phẫu thuật u sọ hầu bằng đường mổ thóp bên trước không những có hiệu quả trong việc điều trị ngoại khoa u sọ hầu, mà còn góp phần đem lại tính thẩm mỹ và ít xâm lấn trong các phẫu thuật sọ não.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!