Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 121 bệnh nhân có triệu chứng trào ngược kháng trị được đo HRM từ tháng 01/2023 đến tháng 01/2024 tại phòng khám Tiêu hóa, Bệnh viện đa khoa Tâm Anh TP.HCM. Kết quả: Tuổi trung bình 46 ± 13 và 52,1% nam giới. Tỉ lệ nhóm nhu động theo Chicago 4.0: 38% bình thường, 7,4% co thắt tâm vị, 23,1% tắc nghẽn vùng nối, 1,7% mất nhu động hoàn toàn, 24% nhu động không hiệu quả (IEM), 5,8% co thắt đoạn xa. Áp lực nền cơ thắt thực quản dưới (LES) và áp lực tích hợp khi nghỉ trong 4 giây (IRP 4s) thấp hơn ở nhóm có so với nhóm không có viêm thực quản trên nội soi (lần lượt là 23,3 ± 14,9 so với 33,4 ± 32,7 và 11,2 ± 11,1 so với 19,3 ± 25,9, p < 0,05). Sau khi hiệu chỉnh cho một số đặc điểm lâm sàng, IRP 4s < 5mmHg có liên quan đến viêm thực quản (OR = 15,54; khoảng tin cậy 95% là 1,21 – 199,16; p = 0,035). Kết luận: IEM là rối loạn nhu động thường gặp nhất trên bệnh nhân có triệu chứng trào ngược kháng trị. IRP 4s < 5mmHg có liên quan đến viêm thực quản trên nội soi.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!