Tuy nhiên đề tài về hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật với chất chỉ thị màu ICG vẫn còn là vấn đề được nghiên cứu. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu: đánh giá hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật sinh thiết hạch gác cửa bằng ICG trong ung thư vú giai đoạn sớm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 127 trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm được điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM từ 1/2021 - 12/2023. Các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú ở giai đoạn I hoặc II, không ghi nhận hạch nách di căn trên lâm sàng. Kết quả và phát hiện chính: Độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 55,8 , bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 26 tuổi và lớn nhất là 86 tuổi. Vị trí thường gặp nhất của bướu là ¼ trên ngoài, chiếm tỷ lệ 50,4%. Nhóm kích thước bướu thường gặp nhất là nhóm từ 1 cm – 2 cm. Nhóm mô bệnh học thường gặp nhất là nhóm carcinôm xâm nhiễm, không đặc hiệu, chiếm tỷ lệ 82,7%. Về phân nhóm sinh học, phần lớn người bệnh có thụ thể nội tiết dương tính với 75,6% người bệnh có thụ thể nội tiết ER và 69,3% người bệnh có thụ thể nội tiết PR. Tỷ lệ phát hiện hạch lính gác đạt 92,9%. Tổng số hạch lính gác ghi nhận trong nghiên cứu là 428 hạch, trung bình sinh thiết được 3,3 hạch khi phẫu thuật. Thông qua sinh thiết hạch lính gác ghi nhận được 14,2% người bệnh có hạch di căn. Không ghi nhận phản ứng dị ứng khi sử dụng ICG. Biến chứng phẫu thuật thường gặp nhất trong điều trị ung thư vú tại bệnh viện ĐHYD là tê tay (6,9%) và tụ dịch vết mổ (3,9%) Kết luận: Sinh thiết hạch lính gác bằng ICG trong ung thư vú cho thấy tính hiệu quả khi khả năng phát hiện hạch di căn cao và ít biến chứng sau phẫu thuật.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!