TCL có thể phản ánh quá trình sinh tiểu cầu của tủy xương, do đó ở những bệnh nhân giảm tiểu cầu với nguyên nhân khác nhau thì giá trị RtcPLT% cũng có sự thay đổi khác nhau. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân đi khám bệnh và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) từ tháng 7/2023–05/2024, trong đó có 112 bệnh nhân (BN) nhóm chứng có số lượng tiểu cầu (SLTC) bình thường và 291 BN giảm tiểu cầu có SLTC <150 G/L. Ngoài ra 90 nhân viên khỏe mạnh khám sức khỏe định kỳ cũng đưa vào nghiên cứu. Xét nghiệm RtcPLT% được phân tích trên máy huyết học tự động Siemens Advia 2120i trên kênh đo hồng cầu lưới, sử dụng kết quả huyết tủy đồ và bệnh án điện tử phân nhóm nguyên nhân. Phân tích giá trị trung bình và trung vị của RtcPLT% giữa các nhóm nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả Kết quả: Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tổng cộng 493 mẫu, có kết quả trung vị RtcPLT% như sau: 90 người nhóm khỏe mạnh là 1,58 [1,14 – 2,37], 112 mẫu cho nhóm chứng 1,74 [1,29 – 2,86] và 291 mẫu nhóm giảm tiểu cầu (GTC) 3,49 [1,51–6,88]. Kết quả trung vị RtcPLT% cho những nhóm nguyên nhân GTC gồm 216 nguyên nhân tại tủy NNTT 2,29[1,15- 3,86] trong đó 163 mẫu có nguyên nhân bệnh lý tại tủy (BLTT) là 1,97 [1,02 – 3,46], 53 mẫu loạn sinh tủy (LST) là 4,16 [2,14 – 7,14] và 75 mẫu cho nguyên nhân ngoại biên (NNNB) 8,27 [6,03 – 11,06]. Sự khác biệt giá trị TCL giữa các nhóm chứng và giảm tiểu cầu, giữa 3 nhóm nguyên nhân BLTT - LST - NNNB có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Giá trị TCL có thể sử dụng để giúp hỗ trợ chẩn đoán phân biệt nguyên nhân ban đầu là tại tủy hay ngoại biên và hơn nữa là giữa 3 nhóm bệnh lý tại tủy - ngoại biên - loạn sinh.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!