Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu thuần tập, chọn mẫu toàn bộ, sử dụng thang điểm Braden để đánh giá nguy cơ loét tỳ đè trên người bệnh tại Đơn vị Hồi sức Ngoại, Trung tâm Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Trong 170 người bệnh tham gia nghiên cứu, tỷ lệ người bệnh loét tỳ đè chiếm 27,6%. Vị trí loét hay gặp nhất là gót chân chiếm 16,5%. Về mức độ loét: độ I chiếm 30,4 %, độ II chiếm 69,6%, không xuất hiện vết loét độ III và độ IV. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về loét tỳ đè và thể trạng với p < 0,05; loét tỳ đè và tình trạng thở máy với p < 0,001. Tỷ lệ loét ở nhóm người bệnh thể trạng trung bình cao hơn nhóm người bệnh có thể trạng gầy và thừa cân. Tỷ lệ nhóm người bệnh có loét thở máy > 7 ngày cao hơn nhóm người bệnh thở máy ≤ 7 ngày. Kết luận: Tình trạng loét tỳ đè là vấn đề đáng được quan tâm ở các đơn vị hồi sức tích cực. Việc triển khai những biện pháp dự phòng sớm và điều trị kịp thời loét tỳ đè là rất cần thiết, đặc biệt trên các đối tượng người bệnh thở máy, nằm bất động. Cần đánh giá một cách tổng thể về nguy cơ loét tỳ đè để có nhận định khách quan, góp phần hạn chế tình trạng này xuất hiện và tiến triển.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!