Đối tượng nghiên cứu: 25 bệnh nhân ≥ 60 tuổi được chẩn đoán bạch cầu cấp dòng tủy mới chẩn đoán điều trị Decitabin đơn độc. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, can thiệp lâm sàng không đối chứng theo dõi dọc, tiến cứu. Kết quả: Tuổi mắc bệnh trung bình là 70,68 ± 7,32, trong đó nam, nữ với tỷ lệ 2,125:1. Thể trạng lâm sàng theo PSECOG ≥2 là 18 (72%), với chỉ số bệnh đi kèm Charlson (CCI) ≥3 là 100%, có 56% bệnh nhân có tình trạng nhiễm khuẩn tại thời điểm chẩn đoán, bệnh nhân có nhu cầu truyền hồng cầu cao tới 80%, truyền tiểu cầu 36%. Về xét nghiệm, trung bình % blast tủy 39,16 ± 18,63, trung vị blast máu 8%, trung vị bạch cầu máu ngoại vi 6.8 G/L, với giảm bạch cầu trung tính độ III-IV 48%. Trong 16 bệnh nhân được đánh giá tại thời điểm bắt đầu điều trị chu kì 2, nhu cầu truyền hồng cầu giảm từ 75% xuống còn 50%, nhu cầu truyền tiểu cầu giảm từ 37,5% xuống còn 31,25%, tuy nhiên tỉ lệ giảm bạch cầu trung tính tăng từ 37,5% lên 43,75%, có 60% bệnh nhân có ghi nhận tình trạng nhiễm trùng và viêm phổi vẫn là nhiễm trùng thường gặp nhất cả trước và sau điều trị lần lượt là 36% và 44%. Trong 8 bệnh nhân điều trị từ 4 chu kì trở lên, tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn là 25%, và tỷ lệ lợi ích lâm sàng là 50%. Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi góp phần gia tăng hiểu biết cho các bác sĩ lâm sàng về đặc điểm nhóm bệnh nhân bạch cầu cấp dòng tủy người cao tuổi và quá trình điều trị Decitabin trên đối tượng bệnh nhân này.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!